chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam
Quan điểm của giới sử gia phương Tây
Nhiều nhà sử học phương Tây thì xem chính thể này như là sản phẩm của chính sách can thiệp thực dân mới mà Mỹ tiến hành tại Đông Nam Á.[139][140][141]
Nhà sử học Frances FitzGerald viết:
Nhiều sử gia cho rằng chính thể này là một chính phủ con rối của Mỹ.[143] Chuyên gia bình định, Trung tá Mỹ William R. Corson thừa nhận rằng "vai trò của chế độ bù nhìn của Mỹ ở miền Nam Việt Nam là "cướp bóc, thu thuế, tái lập lại địa chủ, và tiến hành trả thù chống lại người dân". Nhà sử học James Gibson tóm tắt tình hình: "Chế độ miền Nam Việt Nam không có khả năng chiến thắng vì không có sự ủng hộ của những người nông dân, nó đã có không còn là một "chế độ" theo đúng nghĩa. Liên minh chính trị bất ổn định và hoạt động bộ máy thì quan liêu. Hoạt động của chính phủ dân sự và quân sự đã hầu như chấm dứt. Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã gần như tuyên bố quyền kiểm soát tại các khu vực rộng lớn... nó rất khác với một chính phủ Sài Gòn yếu ớt, không có nền dân chủ cơ bản và một mong muốn mạnh mẽ cho sự thống nhất Việt Nam".[144]
Các nhà nghiên cứu Craig A. Lockard[47], Gregory Daddis[145], Marilyn Young[146], James M. Carter[147] cũng từ những góc độ khác nhau để đưa ra những nhận định ủng hộ quan điểm trên.
Sinh ra trong thời chiến, bị kỳ thị sau ngày hòa bình, sống khó nhọc khi đến Mỹ, số phận
Với tinh thần dao động mạnh, tướng Trưởng trở lại Đà Nẵng buổi chiều ngày 19/3 để thấy tình thế ở đó ngày càng thêm tồi tệ. Pháo binh tầm xa của QGP đã bắn vào bản doanh tiền phương của Quân Đoàn I ở gần Huế.
Buổi sáng ngày 20/3/1975, tướng Trưởng đáp máy bay tới bản doanh TQLC ở phía nam phòng tuyến Mỹ Chánh. Tại đây, ông ta nói với các cấp chỉ huy của Quân Đoàn I rằng Thiệu ra lệnh phải giữ Huế. Các sĩ quan tỏ vẻ vui mừng vì rốt cuộc, ít ra thì họ cũng nhận được một mệnh lệnh dứt khoát và cương quyết và họ đã sẵn sàng chiến đấu trong thế chuẩn bị hiện tại.
Đến 1h30 hôm ấy, người dân được nghe lời tuyên bố thâu băng của Thiệu qua đài phát thanh Huế rằng Huế sẽ được bảo vệ “bằng mọi giá”.
Nhưng đến buổi chiều cùng ngày, khi trở lại bản doanh quân đoàn, tướng Trưởng vô cùng ngạc nhiên nhận được lệnh không giữ Huế nữa. Một mật điện từ Sài Gòn gửi tới nói cho tướng Trưởng biết rằng Bộ Tổng Tham Mưu chỉ có phương tiện để yểm trợ một vùng cố thủ tại Vùng I, có nghĩa là tướng Trưởng phải lựa chọn để giữ lấy một vùng.
Tướng Trưởng suy diễn là Thiệu muốn phải rút về Đà Nẵng, vì Thiệu vẫn coi Đà Nẵng là thành phố quan trọng nhất ở miền Trung. Quả thật là lời lẽ trong mật điện rất mập mờ, như là thói quen của Thiệu từ lâu nay vẫn mập mờ. Thế là lại một lần nữa, tướng Trưởng tin rằng lệnh đã ra là phải rút về Đà Nẵng và quân lực VNCH không cần phải “tử thủ” để giữ Huế.
Biển người tập trung bên bờ biển
Cùng ngày 20/3/1974, ngày mà mật điện của Thiệu càng làm cho tướng Trưởng thêm bối rối thì QGP lại có quyết định mới. Bộ Tư lệnh tối cao của Hà Nội chỉ thị cho Mặt trận B4 và Quân đoàn 2 xuất toàn lực để cắt quốc lộ 1 và cô lập thành phố Huế.
Chỉ thị này được đưa ra sau khi một điệp viên nằm vùng trong dinh của Thiệu đã báo cáo về Hà Nội quyết định bỏ đất ở miền Trung của Thiệu. Từ bản báo cáo ấy, QGP hiểu rằng phải tiến quân thật mau trước khi chủ lực của Quân đoàn I VNCH có thể rút về cố thủ tại một số cứ điểm hoặc được rút về Sài Gòn.
Thi hành chỉ thị mới từ Hà Nội, QGP tung sư đoàn 324B và sư đoàn 325C đánh vào các vị trí của sư đoàn 1 Bộ Binh và của Liên đoàn 15 BĐQ ở phía nam Huế. Các đơn vị VNCH chống cự và giữ vững vị trí cho đến buổi sáng ngày 22/3/1975.
Nhưng đến 2h chiều ngày hôm ấy, các đơn vị còn lại của Liên đoàn 15 BĐQ chịu áp lực quá nặng nên phải rút khỏi các vị trí gần Phú Lộc và rút về phía bắc qua đằng sau các vị trí của sư đoàn 1. Phía sườn trái của sư đoàn 1 cố gắng lập một phòng tuyến mới dọc sông Truồi ở phía nam Huế chừng hai chục cây số nhưng không lập được. Trận đánh này của QGP đã cắt đứt nhiều quãng của Quốc lộ 1.
Đến ngày 23/3/1975 thì Huế đã bị cô lập và chỉ còn liên lạc được với bên ngoài bằng đường biển. Đại bác QGP đã bắn vào Huế và các đơn vị còn lại của BĐQ cùng với sư đoàn 1 vừa chống cự vừa rút dần về phía Huế. Ở phía bắc Huế, BĐQ giữ tuyến sông Mỹ Chánh đã bị chọc thủng nhưng lữ đoàn TQLC 3.000 người lại lập được một phòng tuyến ở bên ngoài Huế chừng 8 cây số dọc con sông Bồ.
Đêm hôm ấy, bản doanh Quân Đoàn I VNCH thông báo cho cố vấn trưởng của Mỹ tại Vùng I và tổng lãnh sự Mỹ Al Francis rằng QGP đã lại đánh bọc sườn sư đoàn 1 và rằng quân lực VNCH không chặn được đối phương nữa. Mấy người Mỹ còn lại tại Huế được trực thăng chở tới Đà Nẵng. Đại họa cho Quân Đoàn I VNCH diễn ra từ phút này.
Lúc 6h sáng ngày 24/3/1975, tin rằng mình thi hành đúng lệnh bỏ Huế và cứu lấy tối đa sinh mạng các binh sĩ Vùng I, tướng Trưởng ra lệnh rút mọi đơn vị chiến đấu ra khỏi thành Huế. TQLC và các đơn vị ở phía tây và phía bắc Huế sẽ rút ra bờ biển, về phía cửa Thuận An, để chờ được tàu chở đi. Sư đoàn 1 sẽ yểm trợ cuộc rút lui của họ và sư đoàn 1 cũng sẽ rút về phía bờ biển.
Cù lao Vĩnh Lộc trải dài ra ba chục cây số về phía Đà Nẵng, nếu dùng phà hoặc tàu nhỏ để tới đó thì có thể tạm tránh được áp lực của QGP để sau đó, lại có thể dùng quốc lộ 1 tiến về Đà Nẵng. Có một trở ngại lớn là từ cù lao Vĩnh Lộc vào đất liền, phải qua một vũng khá lớn và cần có công binh và hải quân trợ giúp.
Các đơn vị TQLC tiến về cửa Thuận An trong trật tự vào ngày 25/3, tuy rằng dọc đường, họ phải mất khá nhiều thời gian để dồn thường dân đi khỏi vùng đất ở bờ biển. Vì tại đó, binh sĩ và chiến cụ sẽ tập trung để lên tàu.
Nhưng đến khi sư đoàn 1 bắt đầu rút theo sau TQLC thì câu nói tiên tri đen tối của chuẩn tướng Điềm “ai lo cho người nấy” đã thành sự thật. Hàng chục ngàn người, binh sĩ và thường dân, trộn lẫn vào nhau và hối hả đi về phía bờ biển.
Thế là sư đoàn 1 bị kẹt cứng trong cái biển người ấy. Một phần bị ảnh hưởng vì lời tiên tri của tướng Điềm, một phần nữa vì quá lo cho thân nhân nên một số binh sĩ bắt đầu bỏ đơn vị để đi tìm gia đình của họ. Ở sau lưng họ, QGP đã tới cửa Đông thành Huế và bắt đầu kéo cờ lên.
Đến buổi trưa thì có nhiều binh sĩ và thường dân đã dồn tới vùng biển. Đám đông tập trung ở vùng biển nháo nhào chen lấn la hét gây kinh hoàng cho những người đang chờ được tàu chở đi.
Nhóm lính vô kỷ luật lấy đi cơ hội cứu hàng ngàn binh sĩ
Sĩ quan hải quân VNCH Hồ Văn Kỳ Thoại cho biết rằng chỉ mới nhận được lệnh từ đêm hôm trước và không có một kế hoạch nào để chở 50.000 người đang chờ trên bờ biển về Đà Nẵng, nhưng ông ta cương quyết sẽ nỗ lực tối đa để cứu những người đang đặt hi vọng vào những chiếc tàu của hải quân VNCH.
Nước thủy triều, sự vô kỷ luật và nóng nảy của một số người (binh sĩ cũng như thường dân), cộng thêm đạn đại bác, đã làm cho công cuộc cấp cứu rất khó khăn và chỉ đạt được kết quả nghèo nàn. Ví dụ một toán binh sĩ vô kỷ luật đã gí súng vào đầu viên sĩ quan hải quân và bắt ông ta phải chở họ đi ngay đến Đà Nẵng.
Vài chục tên lính vô kỷ luật ấy đã lấy đi mất cơ hội cứu hàng ngàn binh sĩ khác. Kết quả là có nhiều người đã cố lội xuống nước để băng sang bên kia vũng biển nhưng họ đã bị nước cuốn trôi. Có rất nhiều người tử nạn vì bị nước cuốn.
Một số ít người sống sót về được tới Đà Nẵng đã buồn bã kể lại câu chuyện chính họ chứng kiến. Năm viên tiểu đoàn trưởng của quân lực VNCH đã cùng nhau tách ra khỏi đám đông lẫn lộn vào những phút chót của sự chờ đợi được tàu hải quân chở đi. Năm viên sĩ quan ấy đều nói lời từ biệt với đám đông, rồi tiến về phía trước và tự sát bằng súng lục của mình.
Cái chết của 5 sĩ quan này nói lên được một phần cái thảm trạng của quân lực VNCH dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Văn Thiệu: Mệnh lệnh ban ra chưa kịp thi hành thì đã thay đổi, rồi lệnh này lại trái ngược hẳn với lệnh kia, đang ở vị trí mạnh thì bị buộc phải rút bỏ, do đó binh sĩ bối rối và chung cuộc, thiếu cấp chỉ huy ở bên họ thì chắc chắn phải tan rã trong hỗn loạn và tủi nhục.
Vốn được coi là linh hồn của Quân Đoàn I để bảo vệ cố đô Huế, sư đoàn 1 đã chịu một cái chết rất bi thảm. Binh sĩ của sư đoàn ấy đều hầu hết có gia đình tại gần đơn vị. Một trong các lý do khiến cho họ chiến đấu gan dạ là họ biết họ đang bảo vệ thân nhân của họ.
Ngược lại, nếu họ biết rằng quê quán và thân nhân họ bị bỏ rơi thì khó giữ vững được tinh thần chiến đấu. Chuyện ấy đã xảy ra khi Nguyễn Văn Thiệu ban ra thứ mệnh lệnh mù quáng và điên khùng, khi thì đòi giữ Huế, khi thì đòi bỏ Huế.
Bị giằng co giữa ý muốn bảo toàn chủ lực cho Quân Đoàn I và ý muốn tuân theo lệnh của Thiệu, nên sư đoàn 1 bị tê liệt (lúc ấy, hẳn tướng Trưởng đã biết rõ sự dốt nát và ngu xuẩn của Thiệu rồi mà đành phải chịu bó tay!). Làm thế nào duy trì được kỷ luật khi đa số binh sĩ được phản lệnh phải trở lại Huế, trong khi gia đình họ đang chạy về phía Đà Nẵng?
Thêm một mệnh lệnh khác thưởng của Thiệu
Mặc dầu có khá nhiều binh sĩ của sư đoàn 1 bỏ đơn vị để đi tìm thân nhân nhưng vẫn còn nhiều đơn vị của sư đoàn 1 cố gắng đến phút chót để giữ được sự phối hợp và tinh thần kỷ luật. Nhà báo Úc Denis Warner đã viết lời truy điệu cái chết của sư đoàn 1 trong một cuốn sách:
“… Trung đoàn 3 của sư đoàn 1 tan rã tại phía tây quốc lộ 1 và chạy về phía biển. BĐQ và quân tự vệ lấn nhau leo lên hai chiếc tàu đổ bộ nhỏ để chạy nhưng họ bị TQLC (cũng của VNCH) tấn công bằng vũ khí tự động và lựu đạn. Hai chiếc tàu chìm ngoài khơi, làm chết trên một trăm người trên tàu”.
“Gần kề sự hỗn loạn tinh thần, ngày 25/03/1975, tướng Trưởng lại còn phải chứng kiến thảm cảnh những gì còn lại của sư đoàn 1 cố tìm cách thoát khỏi vòng vây của QGP mở ra ở phía nam Huế.
“Dầu sao thì sư đoàn ấy cũng đã đưa được chiến xa, quân xa và pháo binh tới cồn cát nằm giữa biển và tỉnh Thừa Thiên. Đó là một hòn đảo nhỏ, xung quanh chỉ có nước. Bị pháo binh đối phương nã bắn không ngừng, sư đoàn này tới được mỏm cực nam của hòn đảo nhưng không thể tới được cực bắc vì gặp một vùng có nước.
Nhiều trực thăng bay tới chở dụng cụ làm cầu nhưng hỏa lực mạnh của đối phương khiến cho công binh phải bỏ cuộc. Cây cầu bị bỏ dở. Thế là trên cồn cát đó, sư đoàn được coi là đáng kính nể nhất của Nam Việt Nam đã mệnh chung”.
Thảm kịch của Quân Đoàn 1 và Vùng I chỉ mới bắt đầu. Khi mở cuộc tấn công ở phía bắc Đà Nẵng, QGP cũng mở một mặt trận khác ở phía nam, khi tung ra một trung đoàn có chiến xa tăng cường để tiến chiếm Tam Kỳ, cắt quốc lộ 1 ở nửa đường đi Chu Lai, là nơi đang có bản doanh của sư đoàn 2 Bộ Binh VNCH.
Lúc tướng Trưởng đang cố gắng lập kế hoạch phòng thủ mới cho Vùng I với những gì còn lại trong tay thì một phái đoàn sĩ quan của Bộ Tổng Tham Mưu lại tới, mang cho ông ta một tin rất buồn: Thiệu ra lệnh phải cho sư đoàn TQLC trở về Sài Gòn ngay để tham dự việc phòng thủ Quân khu III.
Tướng Trưởng không tin là đã nghe thấy cái lệnh kỳ lạ này. Ông ta nói không thể được, vì không có sư đoàn TQLC thì làm sao bảo vệ được Đà Nẵng? Phái đoàn Bộ Tổng Tham Mưu nói rằng không thể trái lệnh của Thiệu và họ đề nghị nên dùng sư đoàn 2 thay thế sư đoàn TQLC bảo vệ Đà Nẵng. Tướng Trưởng đành phải nghe theo. Ông ta xin các tàu đổ bộ từ Sài Gòn tới để di chuyển sư đoàn 2.
Ở đây, lại thêm một lần nữa, vì kế hoạch thiết lập vội vàng nên đã đưa tới nhiều thiệt hại nặng nề cho quân lực VNCH. Để theo đúng thời biểu rút quân đã định, các đơn vị Địa Phương Quân và sư đoàn 2 phải rút vội vã trên những lộ trình không được bảo vệ, do đó, họ bị phục kích liên tiếp bởi sư đoàn 2 của QGP trước khi tới được điểm tập trung để lên tàu.
Trong đêm 25/3/1975, chừng 7.000 binh sĩ (khoảng 2/3 của sư đoàn 2) và 3.000 thường dân được chở ra khỏi Đà Nẵng để tới Cù Lao Ré, cách Đà Nẵng chừng 50 cây số. Sư đoàn 2 này đã mất rất nhiều chiến cụ và đồ trang bị, cho nên cần phải có thêm khá nhiều thời gian tái trang bị trước khi có thể trở lại chiến đấu cho mặt trận Đà Nẵng.
Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa là cơ quan tham mưu quân sự đầu não về lãnh vực chỉ huy và tham mưu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong suốt thời gian tồn tại (1955–1975). Bộ Tổng tham mưu đặt trực tiếp dưới quyền chỉ huy của Nguyên thủ quốc gia Việt Nam Cộng hòa, chịu trách nhiệm xây dựng những kế hoạch về chiến lược và chiến thuật, nhận định tình hình chiến sự, tổ chức và phối trí những cuộc hành quân đủ mọi tầm mức để đối phó và tiêu diệt đối phương, đồng thời điều hành tất cả mọi việc liên quan đến quân đội với mục đích giữ gìn an ninh và bảo vệ lãnh thổ.
Cơ quan tiền thân là Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam, được thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1952, đặt trụ sở tại đường Galliéni (sau là đường Trần Hưng Đạo), Quận 5, Sài Gòn. Tổ chức bộ máy ban đầu phỏng theo cơ cấu tham mưu của Quân đội Pháp, với hầu hết các sĩ quan cao cấp vẫn là sĩ quan Pháp.
Sau khi chánh thể Việt Nam Cộng hòa được thành lập, bộ máy của Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam chuyển thành Tổng Tham mưu Quân đội Việt Nam Cộng hòa với hầu hết nhơn sự cũ trước đây. Tổng hành dinh của Bộ Tổng tham mưu cũng chuyển về trụ sở mới ở trại Trần Hưng Đạo (trước là Camp Chanson) nằm trên đường Võ Tánh, gần phi trường Tân Sơn Nhứt, và cố định ở vị trí này cho đến ngày chánh thể Việt Nam Cộng hòa sụp đổ.
Tháng 4 năm 1964, sau khi thực hiện cuộc chỉnh lý thành công và lên nắm quyền, Trung tướng Nguyễn Khánh trên vai trò Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng ký sắc lịnh đổi danh xưng Bộ Tổng Tham mưu thành Bộ Tổng Tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa bao gồm Lục quân, Không quân, Hải quân và Địa phương quân & Nghĩa quân. Tuy nhiên, chỉ chưa đầy 1 năm sau, sau khi tướng Khánh bị gạt khỏi chánh quyền, danh xưng Bộ Tổng Tư lịnh lại được đổi thành Bộ Tổng Tham mưu vào tháng 2 năm 1965.
Với cuộc cải tổ Quân lực năm 1965, bộ máy của Bộ Tổng tham mưu đã hoàn thiện để thực sự là cơ quan đầu não chủ đạo đưa ra những kế hoạch để hình thành các tổ chức thuộc các quân binh chủng, nha sở, các Quân đoàn, Sư đoàn, Lực lượng Địa phương quân và nghĩa quân.
Sau năm 1975, trụ sở Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa được sử dụng làm trụ sở Bộ Tư lệnh Quân khu 7, Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Khi mới thành lập chuyển đổi, Bộ Tổng Tham mưu được tổ chức rất đơn giản, hầu như giữ nguyên cơ cấu dưới thời Quốc gia Việt Nam, với các thành phần như sau:[1]
Đầu thập niên 1960, các Văn phòng Phụ tá Không quân và Hải quân hình thành Bộ Tư lệnh. Bộ Tổng Tham mưu thành lập thêm các Nha Xã hội, Nha Chiến tranh Tâm lý, Nha Cựu Chiến binh và Phế binh. Ngoài ra còn có Bộ Tư lệnh Hành quân, là cơ quan chỉ huy chiến lược và chiến dịch cao nhất, dưới quyền Bộ Tổng Tham mưu.
Sau cải tổ quân đội năm 1965, cơ cấu Bộ Tổng Tham mưu được hoàn thiện lại. Dưới đây là cơ cấu bộ máy Bộ Tổng Tham mưu vào thời điểm tháng 4 năm 1975: