Giấy phép xuất bản số 110/GP - BTTTT cấp ngày 24.3.2020 © 2003-2024 Bản quyền thuộc về Báo Thanh Niên. Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản.

Vì sao Việt Nam vừa xuất, vừa nhập khẩu dầu thô?

Là quốc gia xuất khẩu dầu thô nhưng Việt Nam vẫn phải nhập khẩu dầu thô cho hai nhà máy lọc dầu trong nước.

Lý giải điều này, chuyên gia Đào Nhật Đình, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho biết, dù đều là hỗn hợp hydrocarbon nhưng dầu thô có rất nhiều nguồn trên thế giới, theo báo Tiền Phong.

Mỗi mỏ khai thác cho ra một loại dầu thô khác nhau về tính chất vật lý, thành phần hóa học. Thông thường, dầu thô được chia thành dầu ngọt và dầu chua (dựa trên hàm lượng lưu huỳnh) và dầu nặng, dầu nhẹ (dựa trên tỷ trọng của dầu).

Trong khi đó, mỗi nhà máy lọc dầu được thiết kế để lọc một loại dầu nhất định, hoặc một hỗn hợp dầu có tính chất nhất định. Hiện nay, Việt Nam có hai nhà máy lọc dầu với khả năng lọc các loại dầu thô khác nhau.

Nhà máy Lọc dầu Dung Quất (CTCP Lọc hóa dầu Bình Sơn) được thiết kế để lọc dầu từ mỏ Bạch Hổ. Dầu Bạch Hổ của Liên doanh Vietsovpetro là loại dầu ngọt nhẹ, hàm lượng lưu huỳnh chiếm 0,03% trọng lượng.

Còn nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn được thiết kế cho hỗn hợp dầu Kuwait hàm lượng lưu huỳnh 2,52%. Do đó dù có khai thác được dầu trong nước nhưng không phải dầu thô nào cũng phù hợp với công nghệ lọc của hai nhà máy lọc dầu Nghi Sơn và Dung Quất.

Vì vậy, Việt Nam vẫn phải xuất dầu thô không phù hợp công nghệ lọc trong nước và nhập khẩu loại dầu thô thích hợp để về lọc.

Chi nhập khẩu dầu thô và xăng dầu các loại 10 tháng 2023 đã vượt 13 tỷ USD, trong đó nhập dầu thô là 5,7 tỷ USD, còn lại 7,34 tỷ USD nhập xăng dầu.

Việt Nam đã chi hơn 13 tỷ USD nhập khẩu dầu thô và xăng dầu các loại.

Tổng cục Hải quan cho biết, nhập khẩu xăng dầu các loại và dầu thô 10 tháng 2023 vẫn gia tăng đáng kể về lượng so với cùng kỳ năm trước, nhưng do giá nhập khẩu các mặt hàng này hạ nhiệt, nên tổng trị giá nhập khẩu đã giảm nhẹ so với cùng kỳ.

Theo đó, lượng nhập khẩu dầu thô trong tháng đạt 1,22 triệu tấn, tăng 199% so với tháng trước với trị giá là 868 triệu USD, tăng 209,7% (tương ứng tăng 588 triệu USD). Tính đến hết tháng 10/2023, Việt Nam đã nhập khẩu 9,02 triệu tấn dầu thô với trị giá là 5,7 tỷ USD, tăng 11,6% về lượng nhưng giảm 10% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.

Việt Nam chủ yếu nhập khẩu dầu thô từ thị trường Cô oét với 7,15 triệu tấn, tăng 4,5% và chiếm gần 80% lượng nhập khẩu dầu thô của cả nước.

Trong khi đó, l ượng nhập khẩu xăng dầu các loại trong tháng 10/2023 đạt 756.000 tấn, giảm 8,4% so với tháng trước với trị giá 684 triệu USD, giảm 12,7% (tương ứng giảm gần 100 triệu USD).

10 tháng/2023, Việt Nam đã nhập khẩu 8,79 triệu tấn xăng dầu các loại, với trị giá là 7,34 tỷ USD, tăng 22,2% về lượng nhưng giảm 0,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.

Lượng dầu diesel nhập về đạt 4,92 triệu tấn, tăng 24,5%, chiếm 56% lượng xăng dầu các loại nhập khẩu của cả nước; lượng xăng nhập về đạt 1,78 triệu tấn, tăng 29,3% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 20% lượng xăng dầu các loại nhập khẩu của cả nước.

Nhập khẩu xăng dầu các loại vào Việt Nam trong 10 tháng/2023 tăng mạnh ở hầu hết các thị trường chính, cụ thể: Hàn Quốc là 3,53 triệu tấn, tăng 28,5%; Singapore là 1,91 triệu tấn, tăng 73%; Malaysia 1,62 triệu tấn, tăng 48,3%; Trung Quốc là 850.000 tấn, giảm 11,3% so với 10 tháng/2022.

Ở chiều ngược lại, xuất khẩu dầu thô của nước ta cũng giảm đáng kể về trị giá do giá dầu hạ nhiệt. Thống kê cho thấy, dầu thô xuất khẩu trong tháng 10/2023 là 241.000 tấn, tăng mạnh 177% so với tháng trước, qua đó nâng tổng lượng xuất khẩu 10 tháng/2023 lên 2,27 triệu tấn, chỉ tăng nhẹ 1% so với cùng kỳ năm trước.

Đơn giá xuất khẩu bình quân dầu thô trong 10 tháng/2023 là 682 USD/tấn, giảm 19,5% nên trị giá nhóm hàng này đạt 1,55 tỷ USD, giảm 18,7% so với cùng kỳ năm trước.

Dầu thô Việt Nam xuất sang thị trường ASEAN và Nhật Bản giảm mạnh, nhưng xuất sang Australia tăng cao. Cụ thể, xuất sang ASEAN với 779.000 tấn, giảm 16,3%; Australia với 723.000 tấn, tăng 102% và Nhật Bản với 250 nghìn tấn, giảm 34,8% so với cùng kỳ năm trước.

Việt Nam vẫn phải nhập nhiều dầu thô nhằm đáp ứng đủ đầu vào cho 2 nhà máy lọc dầu trong nước, gồm Dung Quất và Nghi Sơn. 80% dầu thô phục vụ cho 2 nhà máy này đến từ nguồn nhập khẩu, còn xăng dầu thành phẩm vẫn cần nhập thêm khoảng 30% mới đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước.

Do phụ thuộc lớn, nên hoạt động nhập khẩu dầu thô và xăng dầu cũng chịu sự tác động mạnh khi thế giới biến động.

Lượng nhập khẩu dầu thô gấp 5 lần xuất khẩu

Theo Tổng cục Hải quan, trong tháng 5, nhập khẩu dầu thô đạt 705,5 nghìn tấn, tương đương 500 triệu USD, giảm 43% về lượng và giảm 47% lần về giá trị so với tháng 4.

Lũy kế 5 tháng, nhập khẩu dầu thô đạt 4 triệu tấn, tương đương 2,5 tỷ USD, tăng 5% về lượng nhưng tăng 44% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021.

Ở chiều ngược lại, trong 5 tháng, xuất khẩu dầu thô của Việt Nam đạt 165,5 nghìn tấn, tương đương 182 triệu USD, giảm 28% về lượng và giảm 18% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021.

Lũy kế 5 tháng, xuất khẩu dầu thô đạt 788 nghìn tấn, tương đương 862 triệu USD, giảm 38% về lượng nhưng tăng 37% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021.

(Số liệu: Tổng cục Hải quan, Biểu đồ: Hoàng Anh)

Trong tháng 5, giá dầu thô nhập khẩu khoảng 709 USD/tấn, tăng gấp 1,5 lần so với tháng 5/2021 và tăng hơn 4 lần so với tháng 5/2020.

Tính chung 5 tháng, giá dầu thô nhập khẩu đạt 696 USD/tấn, tăng 1,5 lần so với cùng kỳ năm 2021 và tăng 2 lần so với cùng kỳ năm 2020.

Trong khi đó, giá dầu thô xuất khẩu trong tháng 5 đạt 960 USD/tấn, giảm 15% so với tháng 4 nhưng vẫn tăng hơn 1,8 lần so với tháng 5/2021.

Lũy kế 5 tháng, giá dầu thô xuất khẩu trung bình đạt 866 USD/tấn, tăng 78,5% so với cùng kỳ năm 2021.

(Số liệu: Tổng cục Hải quan, Biểu đồ: Hoàng Anh)

Như vậy, 5 tháng đầu năm, lượng nhập khẩu dầu thô của Việt Nam gấp hơn 5 lần so với lượng xuất khẩu. Tuy nhiên, giá xuất khẩu dầu thô có phần nhỉnh hơn giá nhập khẩu khoảng 35%.