Trong những năm gần đây, năng lực sản xuất sắt thép trong nước tăng lên, điều này khiến xuất khẩu nhiều chủng loại thép của Việt Nam tăng mạnh. Sắt thép của Việt Nam được xuất khẩu sang nhiều thị trường, trong đó, EU là một trong những thị trường nhập khẩu sắt thép lớn của Việt Nam, chiếm trên 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu thép của Việt Nam. Những nội dung đáng chú ý; DANH MỤC BIỂU ĐỒ, BẢNG 1. Tình hình xuất khẩu sắt thép và sản phẩm sắt thép sang thị trường EU năm 2016 - 2020 1.1 Về kim ngạch 1.2 Về chủng loại, thị trường 2. Tình hình sản xuất, tiêu thụ, nhu cầu sắt thép và sản phẩm sắt thép của EU 2.1 Về sản xuất 2.2 Về tiêu thụ 2.3 Nhu cầu nhập khẩu sắt thép của EU và thị phần của Việt Nam 3. Cơ hội, thách thức trong xuất khẩu sắt thép và sản phẩm sắt thép sang thị trường EU và giải pháp 3.1 Cơ hội 3.2 Khó khăn, thách thức 3.3 Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sắt thép và sản phẩm sắt thép sang EU DANH MỤC BIỂU ĐỒ, BẢNG BIỂU ĐỒ BẢNG Để xem chi tiết, vui lòng tải tài liệu tại đây;
Các hiệp định thương mại tự do như EVFTA đã giúp xuất khẩu sắt thép sang thị trường EU tăng trưởng trong thời gian qua.
Thống kê của Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cho thấy xuất khẩu thép của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2022 đạt hơn 2,28 triệu tấn, giảm 22,15% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị xuất khẩu đạt 2,3 tỉ USD, tăng 12,53% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, Liên minh châu Âu (EU) đứng thứ 2 trong top các thị trường xuất khẩu thép của Việt Nam, chiếm hơn 19% tỷ trọng xuất khẩu của toàn ngành.
Kết quả này cho thấy các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước đã tận dụng hiệu quả một số lợi thế từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), nhất là trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, giá cước vận tải biển đi châu Âu tăng mạnh như hiện nay.
Trong năm 2021, thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU đạt 63,6 tỉ USD, tăng trưởng 14,8% so với năm 2020. Cụ thể, tổng giá trị hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang EU đạt 45,8 tỉ USD, tăng 14,2%; còn EU xuất khẩu sang Việt Nam đạt 17,9 tỉ USD, tăng 16,5% so với năm trước.
Nhờ được lợi về thị trường và giá tăng, xuất khẩu sắt thép trong năm 2021 đã cán mốc hơn 13 triệu tấn, tăng tới 32,9%, đạt 11,79 tỉ USD, tăng 124,3% so với năm 2020. Giá đã tăng ở hầu hết thị trường xuất khẩu của Việt Nam, bình quân đạt trên 901 USD/tấn, tăng 68,8% so với năm 2020. Lần đầu tiên, sắt thép đã góp mặt trong danh sách 8 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỉ USD.
Tỷ trọng thép xuất khẩu sang EU tăng mạnh nhờ EVFTA
Thị trường xuất khẩu sắt thép các loại trong thời gian qua đã có sự thay đổi rõ rệt. Nếu top 5 thị trường xuất khẩu thép trong năm 2020 của Việt Nam là ASEAN (42,6%), Trung Quốc (36,53%), EU (2,86%), Đài Loan (2,86%) và Mỹ (1,87%) thì năm 2021 đã có sự thay đổi. Theo đó, ASEAN vẫn là thị trường truyền thống (28,64%), Trung Quốc (21,32%), EU (12,56%), Mỹ (7,51%) và Đài Loan (5,05%).
Trong quý 1.2022, thứ tự các thị trường xuất khẩu thép của Việt Nam tiếp tục có sự thay đổi. Trong khi khu vực ASEAN vẫn là thị trường chính với 40,57% thì xuất khẩu sang thị trường EU đã tăng vọt lên 19,32%, đứng thứ 2 trong top các thị trường xuất khẩu thép của Việt Nam trong giai đoạn này. Các thị trường tiếp theo lần lượt là Mỹ (8,34%), Hàn Quốc (6,97%) và Hong Kong (3,91%).
Có thể thấy, sản lượng xuất khẩu thép của Việt Nam sang EU tăng nhanh qua từng năm. Cụ thể, tỷ trong xuất khẩu thép sang EU ở năm 2021 chiếm 13% (tương đương 1,6 triệu tấn), tăng tới hơn 10 điểm phần trăm so với năm 2020 (2,86%). Bước sang quý 1.2022, con số này đã tăng lên 19,32%.
Việc tăng trưởng xuất khẩu sắt thép cho thấy các doanh nghiệp ngành thép ngày càng quan tâm khai thác thị trường EU và đã tận dụng tốt những ưu đãi mà hiệp định EVFTA mang lại.
Ngoài thị trường EU, xuất khẩu thép sang Anh của Việt Nam trong thời gian qua cũng có bước chuyển tích cực do Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA) thực thi từ ngày 1/1/2021. Theo đó, kim ngạch xuất khẩu thép sang Anh đạt 419.000 tấn, trị giá gần nửa tỉ USD, tăng 700% về lượng và tăng 1.269% về trị giá.
Thép Việt Nam được hưởng lợi tại EU
Các doanh nghiệp thép Việt Nam được hưởng lợi tại thị trường châu Âu
Hiện nay, cuộc xung đột giữa Ukranie và Nga đã làm gián đoạn nguồn cung ứng thép trên thế giới, dẫn tới thiếu hụt nguồn cung và làm tăng giá thép. Được biết, Nga đang xếp thứ 2 về xuất khẩu thép vào EU, với tỷ trọng 14,1% thép dẹt và 19% thép dài; Ukraine chiếm 8% thép dẹt và 7,4% thép dài.
Giá bán thép và giá thành sản xuất thép tại EU cũng sẽ tăng do giá các mặt hàng năng lượng tăng cao. Cùng với việc Liên minh châu Âu thông báo sẽ cấm nhập khẩu sắt, thép từ Nga sẽ làm thiếu hụt nguồn cung cho châu Âu.
Điều này sẽ tạo cơ hội cho các nhà sản xuất xuất khẩu thép từ các thị trường khác, tiêu biểu như Hòa Phát, Nam Kim, Hoa Sen với tăng trưởng doanh thu trong năm 2021 chủ yếu đến từ xuất khẩu sang thị trường EU.
Công ty Chứng khoán Mirae Asset cho rằng các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu tôn mạ như Tôn Nam Kim, Tôn Hoa Sen và Tôn Đông Á được hưởng lợi từ việc xuất khẩu mặt hàng này.
Tương tự, Chứng khoán VCBS cũng đánh giá cao khả năng các doanh nghiệp Nam Kim, Hoa Sen và Hòa Phát có thể tiếp tục duy trì được quy mô doanh thu và lợi nhuận trong năm 2022.
Hiện nay, EU đang áp mức hạn ngạch nhập khẩu khoảng 2 triệu tấn mỗi năm đối với nhóm “các nước khác”, trong đó có Việt Nam ở giai đoạn từ tháng 7.2021 đến tháng 6.2024. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng hiện EU vẫn áp thuế nhập khẩu thép dựa trên hạn mức xuất khẩu, do đó tăng trưởng về sản lượng xuất khẩu của Việt Nam trong 2022 sẽ không còn cao như 2021.
(Xây dựng) - Sắt thép là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam sang thị trường Malaysia với 307 triệu USD trong 6 tháng đầu năm.
Số liệu của Tổng cục Hải quan cho biết, nửa đầu năm 2024, Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang Malaysia đạt 2,61 tỷ USD, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước.
Cụ thể, Việt Nam xuất khẩu sang Malaysia 39 mặt hàng chính, trong đó có 6 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 100 triệu USD với tổng 1,49 tỷ USD, chiếm 57% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này.
Đáng chú ý, sắt thép là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất sang Malaysia với 307 triệu USD, tuy nhiên so với cùng kỳ lại giảm 0,2%.
Sau sắt thép, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai với 277 triệu USD, giảm 12% so với cùng kỳ năm trước.
Tiếp theo là gạo với 274 triệu USD, tăng tới 188% so với cùng kỳ năm trước. Diễn biến này được tác động bởi sự tăng trưởng cả về lượng và giá. Cụ thể, lượng gạo xuất khẩu sang Malaysia tăng tới 133% so với cùng kỳ năm trước, lên mức 461.555 tấn. Giá gạo xuất khẩu bình quân cũng tăng từ 487 USD/tấn lên 595 USD/tấn, tương ứng tăng 22% so với cùng kỳ năm trước.
Các mặt hàng trong nhóm trên 100 triệu USD còn có điện thoại và linh kiện với 246 triệu USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm trước; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác với 202 triệu USD, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước; sản phẩm hóa chất với 189 triệu USD, giảm sâu 42% so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài ra, Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang Malaysia mang về 77 triệu USD, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước; giày dép với 55 triệu USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước; xơ sợi dệt thu về 15 triệu USD, giảm 7% so với cùng kỳ năm trước.
Trong nhóm lâm nghiệp, gỗ và sản phẩm gỗ là mặt hàng có kim ngạch lớn nhất với 75 triệu USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước; giấy và sản phẩm từ giấy xuất khẩu sang Malaysia cũng thu về 32 triệu USD, giảm 11% so với cùng kỳ năm trước.
Việt Nam còn xuất khẩu 19.605 tấn cà phê sang Malaysia, mang về 79 triệu USD, tăng tới 105% so với cùng kỳ năm trước về kim ngạch.
Mặt hàng thủy sản đạt 51 triệu USD, giảm 15% so với cùng kỳ năm trước; rau quả với 27 triệu USD, giảm nhẹ 0,3% so với cùng kỳ năm trước; sắn và sản phẩm từ sắn đạt 5,7 triệu USD, tăng tới 78% so với cùng kỳ năm trước; hạt tiêu với 4,8 triệu USD, tăng 29% so với cùng kỳ năm trước; chè với 2 triệu USD, tăng 42%so với cùng kỳ năm trước.
Trong số 39 mặt hàng xuất khẩu chính sang Malaysia, 17 mặt hàng có kim ngạch giảm và 22 mặt hàng tăng về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Hóa chất là mặt hàng có kim ngạch tăng trưởng cao nhất với tăng 304% so với cùng kỳ năm trước. Than có mức giảm lớn nhất với giảm 99% so với cùng kỳ năm 2023.
Công ty TNHH Sản Xuất Thương Mại Sắt Thép Hữu Sang là nhà cung ứng chuyên nghiệp các loại thép cho ngành xây dựng Việt Nam. Trải qua 25 năm hoạt động và phát triển, chúng tôi cam kết luôn cung cấp các sản phẩm thép tốt nhất về chất lượng và các dịch vụ tốt nhất đến Quý Khách Hàng từ Bắc tới Nam.
Nửa đầu năm 2024, sắt thép là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam sang thị trường Malaysia với 307 triệu USD.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, nửa đầu năm 2024, Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang Malaysia đạt 2,61 tỷ USD, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước.
Việt Nam xuất khẩu sang Malaysia 39 mặt hàng chính, trong đó có 6 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 100 triệu USD với tổng 1,49 tỷ USD, chiếm 57% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này.
Sắt thép là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất sangMalaysia với 307 triệu USD, tuy nhiên so với cùng kỳ lại giảm 0,2%.
Trong khi kim ngạch xuất khẩu sắt thép giảm thì lượng lại ghi nhận tăng từ 428.883 tấn lên 450.449 tấn. Sự chênh lệch đến từ việc giá xuất khẩu sắt thép bình quân từ Việt Nam sang quốc gia Đông Nam Á này giảm 5%, từ 719 USD/tấn tại cùng kỳ năm trước xuống còn 683,1 USD/tấn tại nửa đầu năm 2024.
Theo báo Công Thương, sau sắt thép, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai với 277 triệu USD, giảm 12% so với cùng kỳ năm trước.
Đứng vị trí thứ ba là gạo với 274 triệu USD, tăng tới 188% so với cùng kỳ năm trước. Diễn biến này được tác động bởi sự tăng trưởng cả về lượng và giá. Cụ thể, lượng gạo xuất khẩu sang Malaysia tăng tới 133% so với cùng kỳ năm trước, lên mức 461.555 tấn. Giá gạo xuất khẩu bình quân cũng tăng từ 487 USD/tấn lên 595 USD/tấn, tương ứng tăng 22% so với cùng kỳ năm trước.
Các mặt hàng trong nhóm trên 100 triệu USD còn có điện thoại và linh kiện với 246 triệu USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm trước; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác với 202 triệu USD, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước; sản phẩm hóa chất với 189 triệu USD, giảm sâu 42% so với cùng kỳ năm trước.
Trong nhóm may mặc, Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang Malaysia mang về 77 triệu USD, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước; giày dép với 55 triệu USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước; xơ sợi dệt thu về 15 triệu USD, giảm 7% so với cùng kỳ năm trước.
Trong nhóm lâm nghiệp, gỗ và sản phẩm gỗ là mặt hàng có kim ngạch lớn nhất với 75 triệu USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước; giấy và sản phẩm từ giấy xuất khẩu sang Malaysia cũng thu về 32 triệu USD, giảm 11% so với cùng kỳ năm trước.
Trong nhóm nông, thủy sản, ngoài gạo, Việt Nam còn xuất khẩu 19.605 tấn cà phê sang Malaysia, mang về 79 triệu USD, tăng tới 105% so với cùng kỳ năm trước về kim ngạch.
Đứng sau là mặt hàng thủy sản đat 51 triệu USD, giảm 15% so với cùng kỳ năm trước; rau quả với 27 triệu USD, giảm nhẹ 0,3% so với cùng kỳ năm trước; sắn và sản phẩm từ sắn đạt 5,7 triệu USD, tăng tới 78% so với cùng kỳ năm trước; hạt tiêu với 4,8 triệu USD, tăng 29% so với cùng kỳ năm trước; chè với 2 triệu USD, tăng 42%so với cùng kỳ năm trước.
Trong 39 mặt hàng xuất khẩu chính sang Malaysia, 17 mặt hàng có kim ngạch giảm và 22 mặt hàng tăng về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Hóa chất là mặt hàng có kim ngạch tăng trưởng cao nhất với tăng 304% so với cùng kỳ năm trước. Ngược lại, than có mức giảm lớn nhất với giảm 99% so với cùng kỳ năm trước.
Theo báo Nhân dân, các chuyên gia kinh tế nhận định, Việt Nam-Malaysia còn nhiều tiềm năng để thúc đẩy hơn nữa hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư.
Nếu năm 2011, Việt Nam chỉ là đối tác thương mại thứ 14 của Malaysia với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 7,2 tỷ USD thì đến năm 2023 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam-Malaysia đã tăng lên 12,67 tỷ USD. Cả hai nước đang nỗ lực hướng tới mục tiêu kim ngạch thương mại song phương đạt 25 tỷ USD vào năm 2030. Tuy nhiên, con số này vẫn còn khiêm tốn so với tiềm năng và triển vọng hợp tác rất lớn của hai nước.
Malaysia là nước có nền kinh tế có độ mở lớn, tham gia tích cực vào các hiệp định thương mại tự do đa phương và song phương và được hưởng lợi lớn từ các hiệp định này. Có thể thấy rõ điều này qua việc Malaysia xuất siêu liên tục trong nhiều năm qua. Bên cạnh đó, là quốc gia đa sắc tộc, đa văn hóa, nền kinh tế Malaysia đa dạng, có nhiều phân khúc thị trường khác biệt về văn hóa, tôn giáo nhưng cùng tồn tại và bổ sung cho nhau. Đặc tính của người tiêu dùng nhìn chung là tương đồng với Việt Nam, tuy nhiên yêu cầu về Halal (sản phẩm hợp pháp để sử dụng theo Luật Hồi giáo) là sự khác biệt lớn nhất cần lưu ý.
Từ những đặc điểm trên, có thể thấy giao thương giữa Việt Nam và Malaysia có rất nhiều thuận lợi. Thứ nhất, Malaysia là thị trường có sức mua khá, nhu cầu đa dạng và gần gũi về văn hóa tiêu dùng với hàng Việt Nam. Thứ hai, Malaysia là quốc gia có độ mở thị trường lớn và mức độ rào cản tương đối thấp với hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Về mặt khó khăn, thách thức, trước hết là sự cạnh tranh khốc liệt với các nước xuất khẩu khác, nhất là Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia.
Thứ hai, các mặt hàng thực phẩm đều yêu cầu có chứng chỉ Halal, và việc đạt tiêu chuẩn này sẽ làm doanh nghiệp sản xuất tăng thêm chi phí.
Ông Firdauz Bin Othman, Tổng Lãnh sự Malaysia tại Tp.HCM chia sẻ: Riêng về mảng thực phẩm Halal, là thị trường đang phát triển với tốc độ rất nhanh, được dự báo sẽ đạt giá trị vào khoảng 4,5 nghìn tỷ USD vào năm 2030.
Malaysia với một hệ sinh thái Halal bao quát cho sự phát triển của ngành Halal. Hệ sinh thái này bao gồm hệ thống chứng nhận, tiêu chuẩn, cơ sở hạ tầng, các ưu đãi, nguồn nhân lực và hệ thống tài chính Hồi giáo, hỗ trợ bởi hiệu quả thống nhất từ các học viện của Chính phủ. Malaysia là một trong những quốc gia tiên phong trong ngành Halal, có một môi trường kinh tế thân thiện, có mức độ tín nhiệm cao về chứng nhận Halal và được chấp nhận bởi hầu hết các thị trường Hồi giáo trên toàn thế giới.
Các chuyên gia cho rằng, việc khai thác thành công thị trường Malaysia sẽ là cơ sở giúp Việt Nam mở rộng xuất khẩu sang các nước Trung Đông đầy tiềm năng, cũng như thâm nhập thị trường Halal toàn cầu.